Chương 3
2024-09-12 09:25:15
Vừa vào thành Kiến Khang, xa giá của Nguyên Dực lập tức bày nghi trượng hoàng tử, thị vệ cầm kiếm cầm khiên, thị tòng nâng ô nâng quạt, A Na Côi nhìn mà hoa cả mắt, bỗng thấy một bóng trắng phi vào trong xe, chính là Đàn Đạo Nhất cưỡi ngựa suốt mấy ngày nay.
Nàng phụng phịu dịch vào trong góc, nhìn Nguyên Dực, “Điện hạ, chật quá…”
Ở chung mấy ngày, Nguyên Dực cũng có phần sủng ái A Na Côi, không nỡ trách mắng nàng, “Em cho hắn náu chút đi.”
A Na Côi không hiểu ra sao, nghe thấy bên ngoài ồn ào, không thèm để ý đến Đàn Đạo Nhất nữa mà vội quay đầu đi xem, thấy dòng người trên phố đổ xô tới, gái trai già trẻ, chèn vai áp tay, đang chen lấn nhau nhìn lên xe, nhành hoa, khăn lụa, hoa quả tươi bay như mưa về phía này, A Na Côi né không kịp, vội rụt đầu về, nói với Nguyên Dực: “Họ đang gọi Bọ Ngựa.”
“Đàn lang1.” Nguyên Dực cười ha hả, liếc Đàn Đạo Nhất, “Xe Đàn lang đã chật, ném hoa ích gì đâu!”
1 Trong tiếng Hán, bọ ngựa [tángláng] gần âm với Đàn lang [tánláng].
Đàn Đạo Nhất tựa vào thành xe chợp mắt, bỏ ngoài tai lời trêu ghẹo của Nguyên Dực.
A Na Côi bĩu môi, dỏng tai lên nghe một chốc, sau đó vỗ tay cười, “Cũng có người gọi điện hạ kìa!”
Nguyên Dực vốn đang hơi ghen tị, thấy A Na Côi thật lòng thật dạ bênh vực mình thì trong lòng thoải mái hơn hẳn. Hắn híp mắt cười: “A Na Côi thấy Đàn lang tuấn tú hơn hay điện hạ ta tuấn tú hơn?”
A Na Côi chớp mắt, hàm răng trắng bóng cắn môi đỏ, cười hì hì đáp: “Điện hạ có khí khái nam nhi!”
Nguyên Dực xì khẽ, “Láu cá.”
Sắp tới cung thành, xe ngựa thưa bớt, có cung nhân ngóng đợi trên ngự đạo, trông thấy nghi trượng của Nguyên Dực, vội chạy tới trước xe nói: “Điện hạ đích thân cầu hôn công chúa Nhu Nhiên, ngự sử đã hặc tội, lúc diện thánh xin điện hạ cẩn trọng ngôn từ.”
Nguyên Dực giận mà không có chỗ trút, cười lạnh nói: “Ta đánh rắm thôi bọn chúng còn đòi hặc cơ mà, có gì đáng ngạc nhiên đâu?”
Cung nhân trước xe tiến gần hơn một bước, nhỏ giọng nói: “Hôm qua sứ giả Nhu Nhiên vào kinh trước điện hạ, muốn gả công chúa Nhu Nhiên cho thái tử.”
Nguyên Dực hơi căng thẳng, “Thái tử nói thế nào?”
“Thoạt tiên thái tử nói tuổi tác không tương xứng, hơn nữa đã có thái tử phi, Nhu Nhiên nói công chúa bằng lòng làm lương đệ. Thái tử lại nói, điện hạ có ý cầu cưới công chúa, ngài ấy làm huynh trưởng, không tiện tranh với đệ đệ, thế nên đến giờ chuyện này vẫn chưa có quyết định…”
Lời vừa dứt, một âu trà từ trong xe bay vụt ra, cung nhân bị ném trúng sưng u trán, lúng túng không dám nói nữa.
Thấy Nguyên Dực nổi giận, A Na Côi vội ngồi ngay ngắn, đôi mắt như thu ba tức khắc sinh cảnh giác, rà tới rà lui trên mặt hắn.
Đàn Đạo Nhất cũng mở mắt, im lặng nhìn Nguyên Dực.
“Ngươi lui xuống đi.” Nguyên Dực hít một hơi sâu, mỉm cười như không có chuyện gì xảy ra, phân phó tùy tùng: “Đi phủ thái tử trước đã.” Đoạn, hắn nói với Đàn Đạo Nhất: “Ta phải đi khuyên thái tử cưới công chúa Nhu Nhiên.”
Đàn Đạo Nhất gật đầu, nhảy xuống xe, bào trắng lướt qua càng xe, rất nhiều nhành hoa rơi xuống mặt đất, bị hắn giẫm dưới chân. A Na Côi đang tiếc rẻ thì nghe Nguyên Dực bảo: “A Na Côi, em đi theo hắn đi.”
A Na Côi “ớ” một tiếng, vô cùng ngỡ ngàng.
Vì chuyện thái tử, vẻ mặt Nguyên Dực hơi khó coi, “Ta ở trong cung, chưa khai phủ, làm gì có chỗ thu xếp cho em?”
A Na Côi ngồi giữa đống hoa thơm nức, một khắc trước còn thấy lâng lâng, câu nói của Nguyên Dực đã lập tức kéo nàng rơi xuống đất. Nàng ấp úng gọi một tiếng “Điện hạ”, hơi nước đã dâng lên ngập mắt, cực kì đáng thương.
Nguyên Dực cười kì quặc, “Không phải em muốn vào cung với ta thật đấy chứ?” Hắn lắc đầu, “Trong cung chẳng biết có bao nhiêu con mắt đang nhìn ta chằm chằm, đầm rồng hang hổ như vậy, em không vào được đâu.”
“Điện hạ,” Đàn Đạo Nhất quýnh lên chen miệng, “Tôi không muốn…”
“Chỉ gửi nuôi ở nhà cậu mấy ngày thôi, không phải là tặng cho cậu,” Nguyên Dực không để ý đến chàng nữa mà thân mật xoa xoa khuôn mặt A Na Côi, “Bao giờ xuất cung ta sẽ đi thăm em.”
A Na Côi vẫn chưa hồi phục khỏi cơn đả kích này, luống cuống nhìn hắn.
Nguyên Dực quay đầu sang chỗ khác bảo phu xe, “Đi phủ thái tử.”
A Na Côi chớp chớp rèm mi ướt, đắp nụ cười lên mặt, ngoan ngoãn gật đầu, “Điện hạ, vậy em đi trước đây.” Nàng nhẹ nhàng nhảy xuống càng xe, đổi giọng ngọt ngào, đầy lòng mong ngóng mà dặn dò Nguyên Dực: “Điện hạ, ngài phải nhớ đến thăm em nhé…”
Nguyên Dực thuận miệng nhận lời, xe ngựa quay đầu đi tới phủ thái tử.
A Na Côi nghển cổ dõi theo hồi lâu, nghiêng đầu qua thì thấy Đàn Đạo Nhất cũng xụ mặt xụ mày. Đàn Đạo Nhất hất cằm, “Đi thôi.” Sợ A Na Côi lại chen lên ngựa, chàng vội giương roi quát khẽ “Giá”, dẫn đầu đi trước. A Na Côi sợ bị bỏ rơi, co giò đuổi theo.
Trở lại Đàn phủ, người hầu trong nhà đã sớm hay tin, kính cẩn đứng chờ ở cổng, trông thấy Đàn Đạo Nhất thì hớn hở ra mặt, thân thiết gọi “Lang quân”, tất cả xúm quanh chàng đi vào phủ. A Na Côi bị chen ra góc, đi loanh quanh như ruồi không đầu, thấy trong Đàn phủ tùng reo u u, trúc xanh um tùm, tường trắng ngói đen thấp thoáng sau núi đá, nào phải cảnh phú quý như trong tưởng tượng của nàng? A Na Côi thất vọng, nghĩ bụng: Muốn xem cỏ xem cây Nhu Nhiên còn nhiều hơn, việc gì ta phải lặn lội đường xa tới đây?
Bao giờ điện hạ mới đón ta đi đây?
Đàn Đạo Nhất đi một lúc mới nhớ ra A Na Côi, ngó trái ngó phải, thấy A Na Côi đang dẩu miệng bần thần cạnh đình trúc, vẻ mặt hết sức tiu nghỉu không vui. Chàng vòng về – cả đám nô bộc cũng ùa về theo, A Na Côi bị va một cái lảo đảo ra sau, Đàn Đạo Nhất trỏ tua roi về phía nàng, nói với quản gia: “Dẫn nó đến chỗ ta trước đi.”
Quản gia chỉ cho rằng A Na Côi là một đồng nô Đàn Đạo Nhất mua trên đường, vội nhận lời, hỏi A Na Côi, “Ngươi tên gì?”
Ngón tay A Na Côi vân vê môi, mắt đảo một vòng quanh đình viện, trong nháy mắt đã đặt cho mình một cái tên rất ư phong nhã: “Tôi tên A Tùng…”
“Nhu Nhu1.” Đàn Đạo Nhất nói, “Nó tên là Nhu Nhu.”
1 Chữ 蠕 Nhu này vừa có nghĩa là lúc nhúc, lổm ngổm (chỉ những loài sâu bọ giun sán thân mềm), vừa được dùng để chỉ nước rợ hung ở Ngoại Mông ngày xưa mà nay là Mông Cổ.
“Nhu… Nhu…” Hai cặp mắt của Quản gia và A Na Côi nghi hoặc nhìn Đàn Đạo Nhất.
Đàn Đạo Nhất nghiêng đầu, duỗi ngón tay búng một cái, con sâu trên vai tức thì bắn ra không còn bóng dáng. Chàng khẽ mỉm cười, ném roi ngựa cho quản gia rồi đi vào sảnh đường.
“Khụ khụ, Nhu Nhu.” Quản gia ngoắc tay với A Na Côi, “Đi thôi.” Dẫn A Na Côi băng qua đình viện, quản gia lẩm bẩm: “Tên ngươi kì quặc thật.”
A Na Côi không nhịn được nói: “Tôi tên A Tùng.”
“Nhu Nhu, ngươi chờ ở đây.” Quản gia dẫn A Na Côi tới ngoài phòng Đàn Đạo Nhất, chỉ vào dưới hiên.
A Na Côi ngoan ngoãn ứng tiếng, thong thả đi qua đi lại dưới hiên mấy vòng, trêu vẹt trong lồng mây, hái hải đường trong vườn, cuối cùng không có việc gì làm, hai tay chống cằm ngồi trên lan can, nhìn nhóm vú già ra ra vào vào, thay nệm màn, quét phòng cho Đàn Đạo Nhất.
Quản gia đứng một bên chỉ huy, thỉnh thoảng hỏi A Na Côi một câu: “Lang quân mua ngươi ở đâu? Lạ thật, trước đây lang quân chưa bao giờ mua người bên ngoài, chẳng lẽ ưng ngươi trông có vẻ lanh lợi? Nom ngươi tuổi hãy còn nhỏ, không biết có hầu hạ được lang quân nhà bọn ta không? Nhu Nhu, cái tên này kì quặc quá.”
“Tôi tên A Tùng.” A Na Côi sửa lời ông ta.
Quản gia ậm ừ, dẫn nhóm vú già đi.
A Na Côi buồn chán, chắp tay kiễng chân, lo âu ngó ra ngoài cửa phòng.
Bóng trúc um tùm chiếu lên mành song, trên bàn đặt một bàn cờ gỗ phỉ, trên tường treo một cây cung ngắn bọc ngọc, trên giá đỡ ở bàn có hộp kiếm, cạnh gối có khúc phổ, tượng phật ngọc dưới song được nắng rọi vào tỏa sáng lung linh, thần thái thanh tú. A Na Côi vô thức bước lại gần, nín thở khẽ khàng vốc một nắm quân cờ lạnh như băng trong tráp đựng cờ gỗ lim lên, nhẹ buông tay, quân cờ đen trắng rơi lên mặt bàn như châu ngọc. Nàng không khỏi nhoẻn miệng, lặng lẽ bật cười.
Nàng bước từng bước lùi lại, ngồi xuống mép giường, sờ vết khắc hoa sen trên bình phong, lay lớp màn lụa mỏng tang như cánh ve, mùi đàn hương thanh ngọt trong màn vấn vít miên man. Nàng quấn mình trong màn lụa, chìm vào giấc ngủ.
Nàng quá buồn ngủ.
Đàn Đạo Nhất cũng buồn ngủ.
Cha chàng Đàn Tế sùng Phật, hai cha con đang nói chuyện thì gia nô nghênh đại hòa thượng Huyền Tố của chùa Hạc Lâm vào, Đàn Đạo Nhất chưa kịp chuồn đi đã bị Đàn Tế tay lanh mắt lẹ túm lấy cổ tay, hưng phấn nói: “Cha đặc biệt mời đại hòa thượng tới giảng kinh, cơ hội ngàn năm có một, con nghe cho cẩn thận.”
Thuở thơ ấu, Đàn Đạo Nhất bị Đàn Tế gửi cho Huyền Tố làm tiểu, chịu đủ nỗi khổ ma âm xuyên tai, trông thấy Huyền Tố là màng nhĩ nhức nhối, nhưng giãy thế nào cũng không thoát, đành chắp tay hành lễ, kính cẩn vái Huyền Tố, “Sư phụ.”
Huyền Tố ngồi xuống bồ đoàn giảng kinh Phật. Đàn Tế suất lĩnh một đám gia quyến nô bộc, ngay ngắn ngồi đầu sân, nghe như si như say, không tự kiềm chế được, chỉ hận không thể cạo tóc xả thân bái Phật ngay tại chỗ. Đàn Đạo Nhất nhẫn nhịn hồi lâu mà đại hòa thượng vẫn thao thao bất tuyệt không biết mệt. Chàng thoáng nghiêng người, vai lưng ưỡn thẳng tắp, nhắm hai mắt lại, ngủ gà ngủ gật.
Huyền Tố dừng miệng, Đàn Đạo Nhất mở choàng mắt, ngồi dậy nghiêm chỉnh.
Huyền Tố vui mừng khôn xiết, trước khi lên đường còn lải nhải căn dặn Đàn Đạo Nhất không được lười biếng, phải tĩnh tọa sớm chiều, phùng thập trai giới1, hẹn xong ngày giảng kinh kế tiếp với Đàn Tế rồi mới hài lòng rời đi.
1 Tục lệ của người tu Phật và tu Đạo, mỗi tháng (nông lịch) phải ăn chay mười ngày: mồng một, mồng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín, ba mươi.
Đàn Đạo Nhất như trút được gánh nặng, trở về chỗ ở, bóng đêm đã sâu. Chàng vừa chợp mắt một giấc dài, tinh thần dồi dào, bèn dứt khoát nhân lúc này chép đại mấy bài kinh phật để nộp bài. Xách nến tới ngồi trước bàn, viết được hai dòng thì chợt nghe bên tai có người nói mớ, Đàn Đạo Nhất sinh lòng cảnh giác, lặng lẽ mở hộp kiếm, rút kiếm ra cầm trong tay, đi đến trước màn, vung kiếm bổ vào màn lụa.
Lụa mỏng bay xuống mặt A Na Côi, khóe miệng nàng nhênh nhếch, nở một nụ cười ngọt ngào.
Nàng mơ thấy mẹ. Khi còn bé nàng nằm trên nệm da trong lều nỉ, say sưa ngắm mẹ mặc váy áo như ráng chiều, lướt qua lướt lại trước mắt nàng, thi thoảng phất lên mặt nàng.
Hương thơm cũng phiêu diêu như vậy, quanh quẩn ở chóp mũi.
Mộng đẹp của nàng bị phá nát, có hai bàn tay thô bạo tóm lấy cổ áo nàng, ném nàng ra khỏi giường.
A Na Côi lơ mơ chớp mắt, thấy Đàn Đạo Nhất dằn mạnh trường kiếm lên mặt bàn, sau đó xông ra ngoài kêu gào, sai người đổi hết nệm màn đi.
Trời tối người yên, bị chàng náo động như vậy, trong sân nhất thời ầm ĩ, nhóm vú già vội vàng thay màn trướng mới. Đàn Đạo Nhất lạnh mặt ngồi vào bàn tiếp tục chép kinh, viết được hai chữ lại đặt bút xuống, nghĩ bụng: Nguyên Dực gửi nuôi nàng ở nhà họ Đàn, chẳng phải chủ chẳng phải tớ, thực sự bất tiện, lại không thể thả nàng chạy lung tung gây họa. Đau đầu một lúc lâu, chàng nói với quản gia: “Dọn phòng xép bên cạnh cho nó ở.”
Quản gia ngạc nhiên, “Không để nó ở gian ngoài cho tiện nghe lệnh đợi hầu ạ?”
Đàn Đạo Nhất lắc đầu, “Không được.”
Đám vú già ào ào tới rồi lại ào ào đi, A Na Côi đứng nguyên tại chỗ, trong yên tĩnh bất chợt, hai người nghe thấy tiếng hơi thở của nhau. Đàn Đạo Nhất xem như A Na Côi không tồn tại, ánh nến leo lắt, chàng cụp mi xuống, sườn mặt vẫn ngạo mạn tột cùng.
Xí, mắt lác mũi lệch giả vờ đứng đắn! Để ta bảo điện hạ chém đầu ngươi! A Na Côi trù tính trong lòng, thu ba trong mắt dập dờn, chậm rãi đi tới, định hóa can qua thành gấm vóc với Đàm Đạo Nhất. “Đàn lang,” Nàng mềm giọng nũng nịu, nghe như pha mật, khuôn mặt nhỏ nhắn ửng hồng vì ngủ say, lông mi cong vút, thần sắc không rành thế sự, “Bao lâu thì điện hạ xuất cung một lần? Ngày mai ngài ấy…”
“Không biết.” Đàn Đạo Nhất lạnh nhạt nói, chẳng buồn liếc nàng, “Ngươi đừng gọi ta là Đàn lang.”
A Na Côi ồ một tiếng, rất chi là nghe lời, “Vậy tôi gọi anh là Đạo Nhất huynh nhé.”
“Ta không phải huynh muội với ngươi.”
“Thế tôi gọi anh là gì?”
“Tùy ngươi.”
A Na Côi chống khuỷu tay lên bàn, hai bàn tay đỡ cằm, hơi nghiêng về phía trước, sóng mắt dập dềnh, nhưng Đàn Đạo Nhất không ngước lên, nàng hậm hực nhìn xuống dưới bút chàng, lại bắt chuyện: “Anh đang làm thơ à?” Đàn Đạo Nhất không tiếp lời, nàng chân thành khen: “Thơ hay, chữ đẹp.”
Đàn Đạo Nhất liếc nàng, “Ngươi biết chữ?”
A Na Côi kiêu ngạo ngẩng mặt lên, “Đương nhiên.”
Đàn Đạo Nhất vung bút viết hai chữ Nhu Nhu, “Đây là chữ gì?”
Trong mắt A Na Côi, hai chữ kia y như hai đống bùi nhùi màu đen. Môi nàng mấp máy.
Đàn Đạo Nhất đưa tờ giấy cho nàng, mặt không biến sắc: “Đây là tên của ngươi, dán lên tường phòng mà phỏng theo tập viết cho tử tế, đợi điện hạ tới, ngươi có thể viết cho ngài ấy xem.”
Nàng phụng phịu dịch vào trong góc, nhìn Nguyên Dực, “Điện hạ, chật quá…”
Ở chung mấy ngày, Nguyên Dực cũng có phần sủng ái A Na Côi, không nỡ trách mắng nàng, “Em cho hắn náu chút đi.”
A Na Côi không hiểu ra sao, nghe thấy bên ngoài ồn ào, không thèm để ý đến Đàn Đạo Nhất nữa mà vội quay đầu đi xem, thấy dòng người trên phố đổ xô tới, gái trai già trẻ, chèn vai áp tay, đang chen lấn nhau nhìn lên xe, nhành hoa, khăn lụa, hoa quả tươi bay như mưa về phía này, A Na Côi né không kịp, vội rụt đầu về, nói với Nguyên Dực: “Họ đang gọi Bọ Ngựa.”
“Đàn lang1.” Nguyên Dực cười ha hả, liếc Đàn Đạo Nhất, “Xe Đàn lang đã chật, ném hoa ích gì đâu!”
1 Trong tiếng Hán, bọ ngựa [tángláng] gần âm với Đàn lang [tánláng].
Đàn Đạo Nhất tựa vào thành xe chợp mắt, bỏ ngoài tai lời trêu ghẹo của Nguyên Dực.
A Na Côi bĩu môi, dỏng tai lên nghe một chốc, sau đó vỗ tay cười, “Cũng có người gọi điện hạ kìa!”
Nguyên Dực vốn đang hơi ghen tị, thấy A Na Côi thật lòng thật dạ bênh vực mình thì trong lòng thoải mái hơn hẳn. Hắn híp mắt cười: “A Na Côi thấy Đàn lang tuấn tú hơn hay điện hạ ta tuấn tú hơn?”
A Na Côi chớp mắt, hàm răng trắng bóng cắn môi đỏ, cười hì hì đáp: “Điện hạ có khí khái nam nhi!”
Nguyên Dực xì khẽ, “Láu cá.”
Sắp tới cung thành, xe ngựa thưa bớt, có cung nhân ngóng đợi trên ngự đạo, trông thấy nghi trượng của Nguyên Dực, vội chạy tới trước xe nói: “Điện hạ đích thân cầu hôn công chúa Nhu Nhiên, ngự sử đã hặc tội, lúc diện thánh xin điện hạ cẩn trọng ngôn từ.”
Nguyên Dực giận mà không có chỗ trút, cười lạnh nói: “Ta đánh rắm thôi bọn chúng còn đòi hặc cơ mà, có gì đáng ngạc nhiên đâu?”
Cung nhân trước xe tiến gần hơn một bước, nhỏ giọng nói: “Hôm qua sứ giả Nhu Nhiên vào kinh trước điện hạ, muốn gả công chúa Nhu Nhiên cho thái tử.”
Nguyên Dực hơi căng thẳng, “Thái tử nói thế nào?”
“Thoạt tiên thái tử nói tuổi tác không tương xứng, hơn nữa đã có thái tử phi, Nhu Nhiên nói công chúa bằng lòng làm lương đệ. Thái tử lại nói, điện hạ có ý cầu cưới công chúa, ngài ấy làm huynh trưởng, không tiện tranh với đệ đệ, thế nên đến giờ chuyện này vẫn chưa có quyết định…”
Lời vừa dứt, một âu trà từ trong xe bay vụt ra, cung nhân bị ném trúng sưng u trán, lúng túng không dám nói nữa.
Thấy Nguyên Dực nổi giận, A Na Côi vội ngồi ngay ngắn, đôi mắt như thu ba tức khắc sinh cảnh giác, rà tới rà lui trên mặt hắn.
Đàn Đạo Nhất cũng mở mắt, im lặng nhìn Nguyên Dực.
“Ngươi lui xuống đi.” Nguyên Dực hít một hơi sâu, mỉm cười như không có chuyện gì xảy ra, phân phó tùy tùng: “Đi phủ thái tử trước đã.” Đoạn, hắn nói với Đàn Đạo Nhất: “Ta phải đi khuyên thái tử cưới công chúa Nhu Nhiên.”
Đàn Đạo Nhất gật đầu, nhảy xuống xe, bào trắng lướt qua càng xe, rất nhiều nhành hoa rơi xuống mặt đất, bị hắn giẫm dưới chân. A Na Côi đang tiếc rẻ thì nghe Nguyên Dực bảo: “A Na Côi, em đi theo hắn đi.”
A Na Côi “ớ” một tiếng, vô cùng ngỡ ngàng.
Vì chuyện thái tử, vẻ mặt Nguyên Dực hơi khó coi, “Ta ở trong cung, chưa khai phủ, làm gì có chỗ thu xếp cho em?”
A Na Côi ngồi giữa đống hoa thơm nức, một khắc trước còn thấy lâng lâng, câu nói của Nguyên Dực đã lập tức kéo nàng rơi xuống đất. Nàng ấp úng gọi một tiếng “Điện hạ”, hơi nước đã dâng lên ngập mắt, cực kì đáng thương.
Nguyên Dực cười kì quặc, “Không phải em muốn vào cung với ta thật đấy chứ?” Hắn lắc đầu, “Trong cung chẳng biết có bao nhiêu con mắt đang nhìn ta chằm chằm, đầm rồng hang hổ như vậy, em không vào được đâu.”
“Điện hạ,” Đàn Đạo Nhất quýnh lên chen miệng, “Tôi không muốn…”
“Chỉ gửi nuôi ở nhà cậu mấy ngày thôi, không phải là tặng cho cậu,” Nguyên Dực không để ý đến chàng nữa mà thân mật xoa xoa khuôn mặt A Na Côi, “Bao giờ xuất cung ta sẽ đi thăm em.”
A Na Côi vẫn chưa hồi phục khỏi cơn đả kích này, luống cuống nhìn hắn.
Nguyên Dực quay đầu sang chỗ khác bảo phu xe, “Đi phủ thái tử.”
A Na Côi chớp chớp rèm mi ướt, đắp nụ cười lên mặt, ngoan ngoãn gật đầu, “Điện hạ, vậy em đi trước đây.” Nàng nhẹ nhàng nhảy xuống càng xe, đổi giọng ngọt ngào, đầy lòng mong ngóng mà dặn dò Nguyên Dực: “Điện hạ, ngài phải nhớ đến thăm em nhé…”
Nguyên Dực thuận miệng nhận lời, xe ngựa quay đầu đi tới phủ thái tử.
A Na Côi nghển cổ dõi theo hồi lâu, nghiêng đầu qua thì thấy Đàn Đạo Nhất cũng xụ mặt xụ mày. Đàn Đạo Nhất hất cằm, “Đi thôi.” Sợ A Na Côi lại chen lên ngựa, chàng vội giương roi quát khẽ “Giá”, dẫn đầu đi trước. A Na Côi sợ bị bỏ rơi, co giò đuổi theo.
Trở lại Đàn phủ, người hầu trong nhà đã sớm hay tin, kính cẩn đứng chờ ở cổng, trông thấy Đàn Đạo Nhất thì hớn hở ra mặt, thân thiết gọi “Lang quân”, tất cả xúm quanh chàng đi vào phủ. A Na Côi bị chen ra góc, đi loanh quanh như ruồi không đầu, thấy trong Đàn phủ tùng reo u u, trúc xanh um tùm, tường trắng ngói đen thấp thoáng sau núi đá, nào phải cảnh phú quý như trong tưởng tượng của nàng? A Na Côi thất vọng, nghĩ bụng: Muốn xem cỏ xem cây Nhu Nhiên còn nhiều hơn, việc gì ta phải lặn lội đường xa tới đây?
Bao giờ điện hạ mới đón ta đi đây?
Đàn Đạo Nhất đi một lúc mới nhớ ra A Na Côi, ngó trái ngó phải, thấy A Na Côi đang dẩu miệng bần thần cạnh đình trúc, vẻ mặt hết sức tiu nghỉu không vui. Chàng vòng về – cả đám nô bộc cũng ùa về theo, A Na Côi bị va một cái lảo đảo ra sau, Đàn Đạo Nhất trỏ tua roi về phía nàng, nói với quản gia: “Dẫn nó đến chỗ ta trước đi.”
Quản gia chỉ cho rằng A Na Côi là một đồng nô Đàn Đạo Nhất mua trên đường, vội nhận lời, hỏi A Na Côi, “Ngươi tên gì?”
Ngón tay A Na Côi vân vê môi, mắt đảo một vòng quanh đình viện, trong nháy mắt đã đặt cho mình một cái tên rất ư phong nhã: “Tôi tên A Tùng…”
“Nhu Nhu1.” Đàn Đạo Nhất nói, “Nó tên là Nhu Nhu.”
1 Chữ 蠕 Nhu này vừa có nghĩa là lúc nhúc, lổm ngổm (chỉ những loài sâu bọ giun sán thân mềm), vừa được dùng để chỉ nước rợ hung ở Ngoại Mông ngày xưa mà nay là Mông Cổ.
“Nhu… Nhu…” Hai cặp mắt của Quản gia và A Na Côi nghi hoặc nhìn Đàn Đạo Nhất.
Đàn Đạo Nhất nghiêng đầu, duỗi ngón tay búng một cái, con sâu trên vai tức thì bắn ra không còn bóng dáng. Chàng khẽ mỉm cười, ném roi ngựa cho quản gia rồi đi vào sảnh đường.
“Khụ khụ, Nhu Nhu.” Quản gia ngoắc tay với A Na Côi, “Đi thôi.” Dẫn A Na Côi băng qua đình viện, quản gia lẩm bẩm: “Tên ngươi kì quặc thật.”
A Na Côi không nhịn được nói: “Tôi tên A Tùng.”
“Nhu Nhu, ngươi chờ ở đây.” Quản gia dẫn A Na Côi tới ngoài phòng Đàn Đạo Nhất, chỉ vào dưới hiên.
A Na Côi ngoan ngoãn ứng tiếng, thong thả đi qua đi lại dưới hiên mấy vòng, trêu vẹt trong lồng mây, hái hải đường trong vườn, cuối cùng không có việc gì làm, hai tay chống cằm ngồi trên lan can, nhìn nhóm vú già ra ra vào vào, thay nệm màn, quét phòng cho Đàn Đạo Nhất.
Quản gia đứng một bên chỉ huy, thỉnh thoảng hỏi A Na Côi một câu: “Lang quân mua ngươi ở đâu? Lạ thật, trước đây lang quân chưa bao giờ mua người bên ngoài, chẳng lẽ ưng ngươi trông có vẻ lanh lợi? Nom ngươi tuổi hãy còn nhỏ, không biết có hầu hạ được lang quân nhà bọn ta không? Nhu Nhu, cái tên này kì quặc quá.”
“Tôi tên A Tùng.” A Na Côi sửa lời ông ta.
Quản gia ậm ừ, dẫn nhóm vú già đi.
A Na Côi buồn chán, chắp tay kiễng chân, lo âu ngó ra ngoài cửa phòng.
Bóng trúc um tùm chiếu lên mành song, trên bàn đặt một bàn cờ gỗ phỉ, trên tường treo một cây cung ngắn bọc ngọc, trên giá đỡ ở bàn có hộp kiếm, cạnh gối có khúc phổ, tượng phật ngọc dưới song được nắng rọi vào tỏa sáng lung linh, thần thái thanh tú. A Na Côi vô thức bước lại gần, nín thở khẽ khàng vốc một nắm quân cờ lạnh như băng trong tráp đựng cờ gỗ lim lên, nhẹ buông tay, quân cờ đen trắng rơi lên mặt bàn như châu ngọc. Nàng không khỏi nhoẻn miệng, lặng lẽ bật cười.
Nàng bước từng bước lùi lại, ngồi xuống mép giường, sờ vết khắc hoa sen trên bình phong, lay lớp màn lụa mỏng tang như cánh ve, mùi đàn hương thanh ngọt trong màn vấn vít miên man. Nàng quấn mình trong màn lụa, chìm vào giấc ngủ.
Nàng quá buồn ngủ.
Đàn Đạo Nhất cũng buồn ngủ.
Cha chàng Đàn Tế sùng Phật, hai cha con đang nói chuyện thì gia nô nghênh đại hòa thượng Huyền Tố của chùa Hạc Lâm vào, Đàn Đạo Nhất chưa kịp chuồn đi đã bị Đàn Tế tay lanh mắt lẹ túm lấy cổ tay, hưng phấn nói: “Cha đặc biệt mời đại hòa thượng tới giảng kinh, cơ hội ngàn năm có một, con nghe cho cẩn thận.”
Thuở thơ ấu, Đàn Đạo Nhất bị Đàn Tế gửi cho Huyền Tố làm tiểu, chịu đủ nỗi khổ ma âm xuyên tai, trông thấy Huyền Tố là màng nhĩ nhức nhối, nhưng giãy thế nào cũng không thoát, đành chắp tay hành lễ, kính cẩn vái Huyền Tố, “Sư phụ.”
Huyền Tố ngồi xuống bồ đoàn giảng kinh Phật. Đàn Tế suất lĩnh một đám gia quyến nô bộc, ngay ngắn ngồi đầu sân, nghe như si như say, không tự kiềm chế được, chỉ hận không thể cạo tóc xả thân bái Phật ngay tại chỗ. Đàn Đạo Nhất nhẫn nhịn hồi lâu mà đại hòa thượng vẫn thao thao bất tuyệt không biết mệt. Chàng thoáng nghiêng người, vai lưng ưỡn thẳng tắp, nhắm hai mắt lại, ngủ gà ngủ gật.
Huyền Tố dừng miệng, Đàn Đạo Nhất mở choàng mắt, ngồi dậy nghiêm chỉnh.
Huyền Tố vui mừng khôn xiết, trước khi lên đường còn lải nhải căn dặn Đàn Đạo Nhất không được lười biếng, phải tĩnh tọa sớm chiều, phùng thập trai giới1, hẹn xong ngày giảng kinh kế tiếp với Đàn Tế rồi mới hài lòng rời đi.
1 Tục lệ của người tu Phật và tu Đạo, mỗi tháng (nông lịch) phải ăn chay mười ngày: mồng một, mồng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín, ba mươi.
Đàn Đạo Nhất như trút được gánh nặng, trở về chỗ ở, bóng đêm đã sâu. Chàng vừa chợp mắt một giấc dài, tinh thần dồi dào, bèn dứt khoát nhân lúc này chép đại mấy bài kinh phật để nộp bài. Xách nến tới ngồi trước bàn, viết được hai dòng thì chợt nghe bên tai có người nói mớ, Đàn Đạo Nhất sinh lòng cảnh giác, lặng lẽ mở hộp kiếm, rút kiếm ra cầm trong tay, đi đến trước màn, vung kiếm bổ vào màn lụa.
Lụa mỏng bay xuống mặt A Na Côi, khóe miệng nàng nhênh nhếch, nở một nụ cười ngọt ngào.
Nàng mơ thấy mẹ. Khi còn bé nàng nằm trên nệm da trong lều nỉ, say sưa ngắm mẹ mặc váy áo như ráng chiều, lướt qua lướt lại trước mắt nàng, thi thoảng phất lên mặt nàng.
Hương thơm cũng phiêu diêu như vậy, quanh quẩn ở chóp mũi.
Mộng đẹp của nàng bị phá nát, có hai bàn tay thô bạo tóm lấy cổ áo nàng, ném nàng ra khỏi giường.
A Na Côi lơ mơ chớp mắt, thấy Đàn Đạo Nhất dằn mạnh trường kiếm lên mặt bàn, sau đó xông ra ngoài kêu gào, sai người đổi hết nệm màn đi.
Trời tối người yên, bị chàng náo động như vậy, trong sân nhất thời ầm ĩ, nhóm vú già vội vàng thay màn trướng mới. Đàn Đạo Nhất lạnh mặt ngồi vào bàn tiếp tục chép kinh, viết được hai chữ lại đặt bút xuống, nghĩ bụng: Nguyên Dực gửi nuôi nàng ở nhà họ Đàn, chẳng phải chủ chẳng phải tớ, thực sự bất tiện, lại không thể thả nàng chạy lung tung gây họa. Đau đầu một lúc lâu, chàng nói với quản gia: “Dọn phòng xép bên cạnh cho nó ở.”
Quản gia ngạc nhiên, “Không để nó ở gian ngoài cho tiện nghe lệnh đợi hầu ạ?”
Đàn Đạo Nhất lắc đầu, “Không được.”
Đám vú già ào ào tới rồi lại ào ào đi, A Na Côi đứng nguyên tại chỗ, trong yên tĩnh bất chợt, hai người nghe thấy tiếng hơi thở của nhau. Đàn Đạo Nhất xem như A Na Côi không tồn tại, ánh nến leo lắt, chàng cụp mi xuống, sườn mặt vẫn ngạo mạn tột cùng.
Xí, mắt lác mũi lệch giả vờ đứng đắn! Để ta bảo điện hạ chém đầu ngươi! A Na Côi trù tính trong lòng, thu ba trong mắt dập dờn, chậm rãi đi tới, định hóa can qua thành gấm vóc với Đàm Đạo Nhất. “Đàn lang,” Nàng mềm giọng nũng nịu, nghe như pha mật, khuôn mặt nhỏ nhắn ửng hồng vì ngủ say, lông mi cong vút, thần sắc không rành thế sự, “Bao lâu thì điện hạ xuất cung một lần? Ngày mai ngài ấy…”
“Không biết.” Đàn Đạo Nhất lạnh nhạt nói, chẳng buồn liếc nàng, “Ngươi đừng gọi ta là Đàn lang.”
A Na Côi ồ một tiếng, rất chi là nghe lời, “Vậy tôi gọi anh là Đạo Nhất huynh nhé.”
“Ta không phải huynh muội với ngươi.”
“Thế tôi gọi anh là gì?”
“Tùy ngươi.”
A Na Côi chống khuỷu tay lên bàn, hai bàn tay đỡ cằm, hơi nghiêng về phía trước, sóng mắt dập dềnh, nhưng Đàn Đạo Nhất không ngước lên, nàng hậm hực nhìn xuống dưới bút chàng, lại bắt chuyện: “Anh đang làm thơ à?” Đàn Đạo Nhất không tiếp lời, nàng chân thành khen: “Thơ hay, chữ đẹp.”
Đàn Đạo Nhất liếc nàng, “Ngươi biết chữ?”
A Na Côi kiêu ngạo ngẩng mặt lên, “Đương nhiên.”
Đàn Đạo Nhất vung bút viết hai chữ Nhu Nhu, “Đây là chữ gì?”
Trong mắt A Na Côi, hai chữ kia y như hai đống bùi nhùi màu đen. Môi nàng mấp máy.
Đàn Đạo Nhất đưa tờ giấy cho nàng, mặt không biến sắc: “Đây là tên của ngươi, dán lên tường phòng mà phỏng theo tập viết cho tử tế, đợi điện hạ tới, ngươi có thể viết cho ngài ấy xem.”
Bạn đang đọc truyện trên: DocTruyen.Pro