Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Tiên Sinh Phải...
Nghịch Tử
2024-11-21 20:40:06
Nguyễn Đông Thanh hắng giọng, nói:
“Phùng cô nương nói đùa, tại hạ chỉ là kẻ phàm phu, nào dám lạm bàn những chuyện tu hành, kiếm đạo?”
Phùng Thanh La giống như đã có chuẩn bị trước, vội nói:
“Chính vì tiên sinh là phàm nhân nên tiểu nữ mới muốn hỏi. Có câu trong cuộc tối, ngoài cuộc sáng đó mà. Tiên sinh thân là phàm nhân, cứ lấy thân phận người ngoài cuộc để nói, tiểu nữ theo đó mà được lợi cũng chưa biết chừng.”
Nguyễn Đông Thanh thấy cô nàng nói cũng có lý, bèn không tiện từ chối nữa. Hắn nhớ lại những tiểu thuyết từng đọc, cuối cùng hít sâu một hơi, nói:
“Nếu đã vậy, tại hạ xin mạn phép nhiều lời vài câu. Nhưng xin tiểu thư nhớ cho những gì cô sắp nghe chỉ là một truyền thuyết ở quê cũ của tại hạ, chớ quá tin vào kẻo lợi bất cập hại.”
“Tiên sinh xin hãy yên tâm, Thanh La tự có chừng mực.”
Phùng Thanh La thấy hắn đáp ứng, trong lòng mừng như mở cờ, vội vàng nói chắc như đinh đóng cột. Thực ra, những lời cô nàng vừa nói là kế Lâm Phương Dung nghĩ ra hòng cạy miệng Bích Mặc tiên sinh. Vốn, Kiếm Trì có kế hoạch để một đệ tử bình thường làm thân rồi đến hỏi Nguyễn Đông Thanh, để nếu y có tức giận vì có người động đến cấm kỵ của bản thân thì lửa giận cũng không lan đến căn cơ Kiếm Trì. Thế nhưng, hôm nay vừa hay gặp dịp, nên Phùng Thanh La đánh bạo hỏi luôn. Cùng lắm nếu không may khiến tiên sinh nổi giận, cô nàng tự mình gánh chịu là được.
Nguyễn Đông Thanh hít sâu một hơi, kể:
“Ở quê cũ của tại hạ có truyền thuyết về một kiếm thủ vô địch, danh xưng Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại. Y hành tẩu một đời, chỉ mong bại một lần mà không được, cuối cùng ôm hận mà chết.”
Mới nghe đến đây, đừng nói là Phùng Thanh La vốn là đệ tử Kiếm Trì chuyên môn tu kiếm, ngay cả Trương Mặc Sênh và Hồng Đô cũng đều phải chấn kinh một phen.
Rốt cuộc là cường giả thế nào mà cả đời chỉ cầu một trận thua cũng không được, cuối cùng ôm hận mà chết?
Độc Cô Cầu Bại. Chỉ riêng danh hiệu cũng đủ thấy cái ngông nghênh, bá khí, cô độc, lại có mấy phần bất đắc dĩ của y.
Nguyễn Đông Thanh nào có biết mấy người này nghĩ gì, tiếp tục nói:
“Trước lúc lâm chung, quy ẩn sơn lâm, Kiếm Ma có làm một tòa kiếm mộ, chôn bốn thanh kiếm, cũng là chôn đi kiếm lý cả đời của y. Thanh kiếm thứ nhất gồm cương kiếm: sắc bén vô song, thời trẻ dùng để tranh đấu với quần hùng. Thanh thứ hai là Tử Vi Nhuyễn Kiếm, biến hóa đa đoan, dùng trước năm ba mươi tuổi, vì đả thương nghĩa sĩ nên vứt xuống vực. Chỗ kiếm mộ chỉ để một phiến đá thay thế.”
Hắn ngừng một chốc, cố gắng chỉnh lý lại những gì gã nhớ về tình tiết trong Thần Điêu Hiệp Lữ. Nào ngờ, hành vi này của Nguyễn Đông Thanh trong mắt ba người đang nghe lại trở thành vị tiên sinh này đang hoài niệm, cảm khái về một thời đã ngông nghênh năm nào.
Chỉ nghe Nguyễn Đông Thanh lại tiếp tục:
“Thanh thứ ba là Huyền Thiết Trọng Kiếm, nặng hơn thứ binh khí nặng nhất trên chiến trường, mũi kiếm tròn thô không hề gia công, nặng lại bất tiện. Ghi rằng: trọng kiếm vô phong, không hề gia công. Trước năm bốn mươi tuổi dùng để tung hoành thiên hạ.”
Ba người Phùng Thanh La càng nghe càng mê mẩn, thầm nghĩ thanh kiếm thứ nhất sắc bén, thanh thứ hai chỉ biết tên mà không được thấy, đến thanh thứ ba thì quả thực là kỳ dị quái đản vô cùng, song ắt phải là một thanh thần binh lợi khí.
Ai nấy đều tò mò, không biết thanh kiếm thứ tư sẽ còn là dạng bảo vật gì trên đời.
Lại nghe Nguyễn Đông Thanh kể:
“Thanh kiếm thứ tư, là một thanh kiếm gỗ bình thường. Độc Cô Cầu Bại luyện kiếm đến mức này, đã đạt đến cảnh giới thảo mộc trúc thạch đều có thể làm kiếm, tay cầm kiếm gỗ còn lợi hại hơn là dùng thanh kiếm thứ ba. Cứ thế tịnh tu thêm, cuối cùng đạt tới mức vô kiếm thắng hữu kiếm, mới là cảnh giới sau cùng của kiếm đạo.”
Hai người Hồng Đô, Trương Mặc Sênh càng nghe càng thấy bất khả tư nghị.
Riêng Phùng Thanh La lại kinh động như được nghe đại đạo chi âm, kiếm tâm uẩn dưỡng nhiều năm cơ hồ gặp phải trọng kích, không ngừng nhảy lên thình thịch. Cô nàng nuốt nước bọt một cái, trong lòng thầm kinh hô một tiếng.
Có lẽ... nàng ta đã phát hiện một góc thực lực của Bích Mặc tiên sinh.
Nguyễn Đông Thanh gật gù, cảm thấy nếu nói về tu hành kiếm lý thì chỉ có Độc Cô Cầu Bại của Kim Dung là rõ ràng rành mạch, không trừu tượng, hoặc dùng từ hoa lá rồi né tránh như người khác.
Dù sao, chuyện chẳng can hệ gì hắn, nhưng ảnh hưởng đến tu hành của người ta. Phùng Thanh La không oán không thù gì với gã, Nguyễn Đông Thanh đương nhiên cũng phải chọn mặt gửi vàng, cố gắng hết sức tìm một phiên bản tử tế nhất, bằng không sao xứng làm người có ăn có học đàng hoàng?
“Trước năm ba mươi tuổi, Độc Cô Cầu Bại sử dụng một loại kiếm pháp gọi là Độc Cô Cửu Kiếm, chín thức kiếm pháp phá giải toàn bộ võ công trong thiên hạ. Dùng kỹ thủ thắng, chính là đang luyện công phu ngoại gia.
“Đến bốn mươi tuổi dùng trọng kiếm, luyện kình lực, lại dựa vào công phu nội gia để chế địch.
“Cuối cùng mới đến ‘thảo mộc trúc thạch làm kiếm’, rồi ‘vô kiếm thắng hữu kiếm’. Kiếm thủ dần dần siêu thoát khỏi chấp trước với thanh kiếm, siêu phàm nhập thánh.”
Nguyễn Đông Thanh càng nói càng hăng, tuôn liền một tràng.
Đương nhiên không ít trong số này cũng bao hàm phân tích của chính bản thân gã.
Bấy giờ, thấy ba người đằng sau không nói tiếng nào, cơ hồ đã nghe đến nhập tâm, vội vàng hắng giọng, nói:
“Tất nhiên, chuyện này cũng chỉ là truyền thuyết mà thôi. Đừng quá tin vào. Nhớ không?”
“Tiên sinh dạy phải.”
Phùng Thanh La cơ hồ như bừng tỉnh cơn mê, vội vàng gật đầu lia lịa. Trương Mặc Sênh và Hồng Đô cũng đồng thanh hứa hẹn, thề thốt sắt son rằng sẽ không quá coi chuyện này là thật.
Chẳng qua, ba người chính đang ngầm truyền âm cho nhau.
“Phải chăng... tiên sinh chính là Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại?”
Người hỏi là Trương Mặc Sênh.
“Có thể lắm. Dùng kiếm gỗ bình phàm, chẳng phải cũng giống tiên sinh dùng thân thể phàm nhân sinh hoạt hay sao?”
Phùng Thanh La than nhẹ.
Hồng Đô lại nói:
“Cũng chưa hẳn. Nếu nói tu vi với tiên sinh chính là kiếm, vậy vô kiếm thắng hữu kiếm kia lẽ nào là nói...”
Ba người đồng thời hít sâu một hơi, chỉ thấy sau lưng lạnh run cầm cập.
oOo
Bạch Lộ thư viện.
Lâm lão phu tử, không, bây giờ phải gọi là Lâm Bính, rảo bước tới phòng khách, trong lòng thấp thỏm không biết vị đại nhân ở Đế Mộ kia sao lại chỉ đích danh lão đến gặp.
Từ sau ngày bị vỡ nát nho tâm tại thành Ngự Long, danh vọng của lão tại Bạch Lộ thư viện cũng theo đó mà sụp đổ hoàn toàn. Từ một cự đầu trong môn phái, ai gặp cũng phải cúi đầu chào lão một tiếng, giờ lão chỉ còn là một tên thủ thư cỏn con, chẳng ai ngó ngàng tới.
Lâm Bính lúc đầu còn ôm mộng báo thù, dù gì việc của lão cũng là nỗi nhục chung của Bạch Lộ thư viện. Thế nhưng, sau khi biết thiếu niên đã chấn vỡ Nho tâm của lão là đại đồ đệ của vị đại năng sống ở Lão Thụ cổ viện, thì lão cũng mất luôn chút hy vọng còn sót lại ấy. Lúc này, tâm lão ta sớm đã nguội lạnh, vốn chỉ định yên ổn sống nốt đời tàn. Thế rồi hôm nay, bỗng nhiên có người báo với lão, một vị đại nhân vật của Đế Mộ đến tận Bạch Lộ thư viện để tìm gặp lão.
Lâm Bính đẩy cửa phòng bước vào. Chỉ thấy ngồi trên ghế đang tự rót trà uống là một người có diện mạo như thư sinh, nhưng hai ánh mắt thì lại thấp thoáng có nét tàn độc. Y mặc áo bào, tay mang hộ uyển, hông đeo kiếm.
Lâm Bính tiến tới, chắp tay cúi mình:
“Bái kiến đại nhân, không biết đại nhân tìm tiểu sinh có gì sai bảo?”
“Bản soái Nghiêm Hàn, chắc ngươi từng nghe danh?”
Lâm Bính giật mình, nhìn kỹ lại vị trước mắt. Tại nước Sở – không, khắp Huyền Hoàng giới – có ai mà chưa từng nghe danh Sát thần Nghiêm Hàn?
Nghiêm Hàn không đợi lão trả lời, đã lại nói tiếp:
“Chuyện cũ không cần nhắc lại. Bản soái giờ cũng không phải tướng của Tề Vương, mà là nguyên soái của Đế Mộ. Hôm nay đến đây tìm ngươi cũng là vì chuyện của Đế Mộ.”
Gã nhấp một ngụm trà, lại nói:
“Bản soái đã biết chuyện của ngươi. Nếu ngươi làm tốt chuyện ta chuẩn bị giao, liền không thiếu chỗ tốt cho ngươi.”
Dứt lời thì liền đứng dậy, tiến nhanh tới trước mặt Lâm Bính, trước khi lão kịp phản ứng, thì gã đã lấy đầu ngón giữa, gõ nhẹ vào trán lão một cái. Lâm Bính tức thì giật nảy mình như có dòng điện chạy qua người, ngã phịch xuống đất.
Mất một lúc sau, Lâm Bính mới như hoàn hồn, kinh sợ nhìn Nghiêm Hàn. Đoạn, lão vội bò dậy, chuyển qua thành thế quỳ, dập đầu thành từng tiếng “bịch”:
“Tiểu sinh đa tạ ơn tái sinh của đại nhân. Từ nay trở đi, cho dù đại nhân muốn tiểu sinh lên núi đao xuống biển lửa, tiểu sinh cũng quyết không từ nan!”
“Được rồi, đứng lên đi! Trước mắt bản soái cũng không cần ngươi lên núi đao hay xuống biển lửa làm gì, chỉ cần giúp ta tra cứu về một người thôi.”
“Xin hỏi đại nhân, là ai ạ?”
Lâm Bính lồm cồm bò dậy, lại tiến sát đến, hỏi.
Nghiêm Hàn cũng ghé tai lão, trả lời:
“Một vị Đại Nho mang tên Cao Bá Quát, y rất có thể có liên quan đến vị ở Lão Thụ cổ viện.”
Lâm Bính nghe đến đây thì giật mình. Lại nghe Nghiêm Hàn nói tiếp:
“Vị Đại Nho này có để lại một bài thơ, ngươi tự đọc đi! Nhớ kỹ, việc này liên quan đến Bích Mặc tiên sinh, nên cẩn thận mà hành động!”
Dứt lời, thì Nghiêm Hàn liền rút ra một tờ giấy, dúi vào tay lão, rồi mới lùi lại mấy bước, xoay người đi ra cửa. Trước khi đi, như nhớ ra chuyện gì, hắn rút một quyển sách từ trong người ra, ném cho Lâm Bính:
“À đúng rồi, thứ này cho ngươi! Trước mắt cứ nghiên cứu nó đi.”
Lâm Bính đỡ lấy cuốn sách, vái Nghiêm Hàn một cái dài. Đoạn, quay người trở về phòng.
Lâm Bính đã vỡ nát Nho tâm, vốn dĩ cả đời này không thể tu luyện nữa. Thế nhưng khi Nghiêm Hàn gõ vào trán lão, đã truyền cho lão binh đạo của y, trước khi đi lại để lại binh thư cho lão học. Đây quả thực không khác nào ân tái tạo, chả thế mà ban nãy lão ta kích động như vậy.
Phải biết, Sát thần Nghiêm Hàn, có thể dùng Huyền Giáp Vệ càn quét năm nước, chính nhờ binh đạo của y có thể giúp đề thăng sức mạnh cho binh lính dưới trướng.
Tại Huyền Hoàng giới, có năm dòng tu luyện chính là Nho, Phật, Đạo, Võ, Vu. Thế nhưng, tất nhiên, đây cũng không phải năm phương pháp tu luyện duy nhất. Như Mỹ Vị sơn trang chủ tu trù đạo, hay các loại Yêu tộc có thể tu riêng đường của tộc họ. Binh đạo của Nghiêm Hàn cũng là như vậy.
Trù đạo và Binh đạo giống nhau ở chỗ không hoàn toàn dựa vào sức của người tu hành. Trù đạo phần nào bị ảnh hưởng từ việc nạp địa hỏa vào người, còn Binh đạo thì còn dựa vào binh lính dưới quyền. Thành thử, cảnh giới hai đạo này không phân chia được rõ ràng như năm dòng chính. Cũng có người nói, cảnh giới của hai đạo này còn chưa kịp thành hình thì đã bị Phản Thiên chi chiến phá cho sụp đổ.
Xét đến tận cùng, Binh đạo có lẽ là sự kết hợp kỳ diệu giữa Nho đạo và Võ đạo, nhưng đã sớm tự thành một phái. Lần này Nghiêm Hàn trước dùng thân phận thư sinh đến hỏi chuyện Nguyễn Đông Thanh, sau lại nhờ Nho giáo truy tung Cao Bá Quát, âu cũng vì liên hệ giữa Binh đạo và Nho đạo. Hắn chính đang đẩy Nho giáo lên trước đứng mũi chịu sào, làm bia đỡ đạn trong trường hợp Bích Mặc tiên sinh truy tung nhân quả.
“Phùng cô nương nói đùa, tại hạ chỉ là kẻ phàm phu, nào dám lạm bàn những chuyện tu hành, kiếm đạo?”
Phùng Thanh La giống như đã có chuẩn bị trước, vội nói:
“Chính vì tiên sinh là phàm nhân nên tiểu nữ mới muốn hỏi. Có câu trong cuộc tối, ngoài cuộc sáng đó mà. Tiên sinh thân là phàm nhân, cứ lấy thân phận người ngoài cuộc để nói, tiểu nữ theo đó mà được lợi cũng chưa biết chừng.”
Nguyễn Đông Thanh thấy cô nàng nói cũng có lý, bèn không tiện từ chối nữa. Hắn nhớ lại những tiểu thuyết từng đọc, cuối cùng hít sâu một hơi, nói:
“Nếu đã vậy, tại hạ xin mạn phép nhiều lời vài câu. Nhưng xin tiểu thư nhớ cho những gì cô sắp nghe chỉ là một truyền thuyết ở quê cũ của tại hạ, chớ quá tin vào kẻo lợi bất cập hại.”
“Tiên sinh xin hãy yên tâm, Thanh La tự có chừng mực.”
Phùng Thanh La thấy hắn đáp ứng, trong lòng mừng như mở cờ, vội vàng nói chắc như đinh đóng cột. Thực ra, những lời cô nàng vừa nói là kế Lâm Phương Dung nghĩ ra hòng cạy miệng Bích Mặc tiên sinh. Vốn, Kiếm Trì có kế hoạch để một đệ tử bình thường làm thân rồi đến hỏi Nguyễn Đông Thanh, để nếu y có tức giận vì có người động đến cấm kỵ của bản thân thì lửa giận cũng không lan đến căn cơ Kiếm Trì. Thế nhưng, hôm nay vừa hay gặp dịp, nên Phùng Thanh La đánh bạo hỏi luôn. Cùng lắm nếu không may khiến tiên sinh nổi giận, cô nàng tự mình gánh chịu là được.
Nguyễn Đông Thanh hít sâu một hơi, kể:
“Ở quê cũ của tại hạ có truyền thuyết về một kiếm thủ vô địch, danh xưng Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại. Y hành tẩu một đời, chỉ mong bại một lần mà không được, cuối cùng ôm hận mà chết.”
Mới nghe đến đây, đừng nói là Phùng Thanh La vốn là đệ tử Kiếm Trì chuyên môn tu kiếm, ngay cả Trương Mặc Sênh và Hồng Đô cũng đều phải chấn kinh một phen.
Rốt cuộc là cường giả thế nào mà cả đời chỉ cầu một trận thua cũng không được, cuối cùng ôm hận mà chết?
Độc Cô Cầu Bại. Chỉ riêng danh hiệu cũng đủ thấy cái ngông nghênh, bá khí, cô độc, lại có mấy phần bất đắc dĩ của y.
Nguyễn Đông Thanh nào có biết mấy người này nghĩ gì, tiếp tục nói:
“Trước lúc lâm chung, quy ẩn sơn lâm, Kiếm Ma có làm một tòa kiếm mộ, chôn bốn thanh kiếm, cũng là chôn đi kiếm lý cả đời của y. Thanh kiếm thứ nhất gồm cương kiếm: sắc bén vô song, thời trẻ dùng để tranh đấu với quần hùng. Thanh thứ hai là Tử Vi Nhuyễn Kiếm, biến hóa đa đoan, dùng trước năm ba mươi tuổi, vì đả thương nghĩa sĩ nên vứt xuống vực. Chỗ kiếm mộ chỉ để một phiến đá thay thế.”
Hắn ngừng một chốc, cố gắng chỉnh lý lại những gì gã nhớ về tình tiết trong Thần Điêu Hiệp Lữ. Nào ngờ, hành vi này của Nguyễn Đông Thanh trong mắt ba người đang nghe lại trở thành vị tiên sinh này đang hoài niệm, cảm khái về một thời đã ngông nghênh năm nào.
Chỉ nghe Nguyễn Đông Thanh lại tiếp tục:
“Thanh thứ ba là Huyền Thiết Trọng Kiếm, nặng hơn thứ binh khí nặng nhất trên chiến trường, mũi kiếm tròn thô không hề gia công, nặng lại bất tiện. Ghi rằng: trọng kiếm vô phong, không hề gia công. Trước năm bốn mươi tuổi dùng để tung hoành thiên hạ.”
Ba người Phùng Thanh La càng nghe càng mê mẩn, thầm nghĩ thanh kiếm thứ nhất sắc bén, thanh thứ hai chỉ biết tên mà không được thấy, đến thanh thứ ba thì quả thực là kỳ dị quái đản vô cùng, song ắt phải là một thanh thần binh lợi khí.
Ai nấy đều tò mò, không biết thanh kiếm thứ tư sẽ còn là dạng bảo vật gì trên đời.
Lại nghe Nguyễn Đông Thanh kể:
“Thanh kiếm thứ tư, là một thanh kiếm gỗ bình thường. Độc Cô Cầu Bại luyện kiếm đến mức này, đã đạt đến cảnh giới thảo mộc trúc thạch đều có thể làm kiếm, tay cầm kiếm gỗ còn lợi hại hơn là dùng thanh kiếm thứ ba. Cứ thế tịnh tu thêm, cuối cùng đạt tới mức vô kiếm thắng hữu kiếm, mới là cảnh giới sau cùng của kiếm đạo.”
Hai người Hồng Đô, Trương Mặc Sênh càng nghe càng thấy bất khả tư nghị.
Riêng Phùng Thanh La lại kinh động như được nghe đại đạo chi âm, kiếm tâm uẩn dưỡng nhiều năm cơ hồ gặp phải trọng kích, không ngừng nhảy lên thình thịch. Cô nàng nuốt nước bọt một cái, trong lòng thầm kinh hô một tiếng.
Có lẽ... nàng ta đã phát hiện một góc thực lực của Bích Mặc tiên sinh.
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
Nguyễn Đông Thanh gật gù, cảm thấy nếu nói về tu hành kiếm lý thì chỉ có Độc Cô Cầu Bại của Kim Dung là rõ ràng rành mạch, không trừu tượng, hoặc dùng từ hoa lá rồi né tránh như người khác.
Dù sao, chuyện chẳng can hệ gì hắn, nhưng ảnh hưởng đến tu hành của người ta. Phùng Thanh La không oán không thù gì với gã, Nguyễn Đông Thanh đương nhiên cũng phải chọn mặt gửi vàng, cố gắng hết sức tìm một phiên bản tử tế nhất, bằng không sao xứng làm người có ăn có học đàng hoàng?
“Trước năm ba mươi tuổi, Độc Cô Cầu Bại sử dụng một loại kiếm pháp gọi là Độc Cô Cửu Kiếm, chín thức kiếm pháp phá giải toàn bộ võ công trong thiên hạ. Dùng kỹ thủ thắng, chính là đang luyện công phu ngoại gia.
“Đến bốn mươi tuổi dùng trọng kiếm, luyện kình lực, lại dựa vào công phu nội gia để chế địch.
“Cuối cùng mới đến ‘thảo mộc trúc thạch làm kiếm’, rồi ‘vô kiếm thắng hữu kiếm’. Kiếm thủ dần dần siêu thoát khỏi chấp trước với thanh kiếm, siêu phàm nhập thánh.”
Nguyễn Đông Thanh càng nói càng hăng, tuôn liền một tràng.
Đương nhiên không ít trong số này cũng bao hàm phân tích của chính bản thân gã.
Bấy giờ, thấy ba người đằng sau không nói tiếng nào, cơ hồ đã nghe đến nhập tâm, vội vàng hắng giọng, nói:
“Tất nhiên, chuyện này cũng chỉ là truyền thuyết mà thôi. Đừng quá tin vào. Nhớ không?”
“Tiên sinh dạy phải.”
Phùng Thanh La cơ hồ như bừng tỉnh cơn mê, vội vàng gật đầu lia lịa. Trương Mặc Sênh và Hồng Đô cũng đồng thanh hứa hẹn, thề thốt sắt son rằng sẽ không quá coi chuyện này là thật.
Chẳng qua, ba người chính đang ngầm truyền âm cho nhau.
“Phải chăng... tiên sinh chính là Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại?”
Người hỏi là Trương Mặc Sênh.
“Có thể lắm. Dùng kiếm gỗ bình phàm, chẳng phải cũng giống tiên sinh dùng thân thể phàm nhân sinh hoạt hay sao?”
Phùng Thanh La than nhẹ.
Hồng Đô lại nói:
“Cũng chưa hẳn. Nếu nói tu vi với tiên sinh chính là kiếm, vậy vô kiếm thắng hữu kiếm kia lẽ nào là nói...”
Ba người đồng thời hít sâu một hơi, chỉ thấy sau lưng lạnh run cầm cập.
oOo
Bạch Lộ thư viện.
Lâm lão phu tử, không, bây giờ phải gọi là Lâm Bính, rảo bước tới phòng khách, trong lòng thấp thỏm không biết vị đại nhân ở Đế Mộ kia sao lại chỉ đích danh lão đến gặp.
Từ sau ngày bị vỡ nát nho tâm tại thành Ngự Long, danh vọng của lão tại Bạch Lộ thư viện cũng theo đó mà sụp đổ hoàn toàn. Từ một cự đầu trong môn phái, ai gặp cũng phải cúi đầu chào lão một tiếng, giờ lão chỉ còn là một tên thủ thư cỏn con, chẳng ai ngó ngàng tới.
Lâm Bính lúc đầu còn ôm mộng báo thù, dù gì việc của lão cũng là nỗi nhục chung của Bạch Lộ thư viện. Thế nhưng, sau khi biết thiếu niên đã chấn vỡ Nho tâm của lão là đại đồ đệ của vị đại năng sống ở Lão Thụ cổ viện, thì lão cũng mất luôn chút hy vọng còn sót lại ấy. Lúc này, tâm lão ta sớm đã nguội lạnh, vốn chỉ định yên ổn sống nốt đời tàn. Thế rồi hôm nay, bỗng nhiên có người báo với lão, một vị đại nhân vật của Đế Mộ đến tận Bạch Lộ thư viện để tìm gặp lão.
Lâm Bính đẩy cửa phòng bước vào. Chỉ thấy ngồi trên ghế đang tự rót trà uống là một người có diện mạo như thư sinh, nhưng hai ánh mắt thì lại thấp thoáng có nét tàn độc. Y mặc áo bào, tay mang hộ uyển, hông đeo kiếm.
Lâm Bính tiến tới, chắp tay cúi mình:
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
“Bái kiến đại nhân, không biết đại nhân tìm tiểu sinh có gì sai bảo?”
“Bản soái Nghiêm Hàn, chắc ngươi từng nghe danh?”
Lâm Bính giật mình, nhìn kỹ lại vị trước mắt. Tại nước Sở – không, khắp Huyền Hoàng giới – có ai mà chưa từng nghe danh Sát thần Nghiêm Hàn?
Nghiêm Hàn không đợi lão trả lời, đã lại nói tiếp:
“Chuyện cũ không cần nhắc lại. Bản soái giờ cũng không phải tướng của Tề Vương, mà là nguyên soái của Đế Mộ. Hôm nay đến đây tìm ngươi cũng là vì chuyện của Đế Mộ.”
Gã nhấp một ngụm trà, lại nói:
“Bản soái đã biết chuyện của ngươi. Nếu ngươi làm tốt chuyện ta chuẩn bị giao, liền không thiếu chỗ tốt cho ngươi.”
Dứt lời thì liền đứng dậy, tiến nhanh tới trước mặt Lâm Bính, trước khi lão kịp phản ứng, thì gã đã lấy đầu ngón giữa, gõ nhẹ vào trán lão một cái. Lâm Bính tức thì giật nảy mình như có dòng điện chạy qua người, ngã phịch xuống đất.
Mất một lúc sau, Lâm Bính mới như hoàn hồn, kinh sợ nhìn Nghiêm Hàn. Đoạn, lão vội bò dậy, chuyển qua thành thế quỳ, dập đầu thành từng tiếng “bịch”:
“Tiểu sinh đa tạ ơn tái sinh của đại nhân. Từ nay trở đi, cho dù đại nhân muốn tiểu sinh lên núi đao xuống biển lửa, tiểu sinh cũng quyết không từ nan!”
“Được rồi, đứng lên đi! Trước mắt bản soái cũng không cần ngươi lên núi đao hay xuống biển lửa làm gì, chỉ cần giúp ta tra cứu về một người thôi.”
“Xin hỏi đại nhân, là ai ạ?”
Lâm Bính lồm cồm bò dậy, lại tiến sát đến, hỏi.
Nghiêm Hàn cũng ghé tai lão, trả lời:
“Một vị Đại Nho mang tên Cao Bá Quát, y rất có thể có liên quan đến vị ở Lão Thụ cổ viện.”
Lâm Bính nghe đến đây thì giật mình. Lại nghe Nghiêm Hàn nói tiếp:
“Vị Đại Nho này có để lại một bài thơ, ngươi tự đọc đi! Nhớ kỹ, việc này liên quan đến Bích Mặc tiên sinh, nên cẩn thận mà hành động!”
Dứt lời, thì Nghiêm Hàn liền rút ra một tờ giấy, dúi vào tay lão, rồi mới lùi lại mấy bước, xoay người đi ra cửa. Trước khi đi, như nhớ ra chuyện gì, hắn rút một quyển sách từ trong người ra, ném cho Lâm Bính:
“À đúng rồi, thứ này cho ngươi! Trước mắt cứ nghiên cứu nó đi.”
Lâm Bính đỡ lấy cuốn sách, vái Nghiêm Hàn một cái dài. Đoạn, quay người trở về phòng.
Lâm Bính đã vỡ nát Nho tâm, vốn dĩ cả đời này không thể tu luyện nữa. Thế nhưng khi Nghiêm Hàn gõ vào trán lão, đã truyền cho lão binh đạo của y, trước khi đi lại để lại binh thư cho lão học. Đây quả thực không khác nào ân tái tạo, chả thế mà ban nãy lão ta kích động như vậy.
Phải biết, Sát thần Nghiêm Hàn, có thể dùng Huyền Giáp Vệ càn quét năm nước, chính nhờ binh đạo của y có thể giúp đề thăng sức mạnh cho binh lính dưới trướng.
Tại Huyền Hoàng giới, có năm dòng tu luyện chính là Nho, Phật, Đạo, Võ, Vu. Thế nhưng, tất nhiên, đây cũng không phải năm phương pháp tu luyện duy nhất. Như Mỹ Vị sơn trang chủ tu trù đạo, hay các loại Yêu tộc có thể tu riêng đường của tộc họ. Binh đạo của Nghiêm Hàn cũng là như vậy.
Trù đạo và Binh đạo giống nhau ở chỗ không hoàn toàn dựa vào sức của người tu hành. Trù đạo phần nào bị ảnh hưởng từ việc nạp địa hỏa vào người, còn Binh đạo thì còn dựa vào binh lính dưới quyền. Thành thử, cảnh giới hai đạo này không phân chia được rõ ràng như năm dòng chính. Cũng có người nói, cảnh giới của hai đạo này còn chưa kịp thành hình thì đã bị Phản Thiên chi chiến phá cho sụp đổ.
Xét đến tận cùng, Binh đạo có lẽ là sự kết hợp kỳ diệu giữa Nho đạo và Võ đạo, nhưng đã sớm tự thành một phái. Lần này Nghiêm Hàn trước dùng thân phận thư sinh đến hỏi chuyện Nguyễn Đông Thanh, sau lại nhờ Nho giáo truy tung Cao Bá Quát, âu cũng vì liên hệ giữa Binh đạo và Nho đạo. Hắn chính đang đẩy Nho giáo lên trước đứng mũi chịu sào, làm bia đỡ đạn trong trường hợp Bích Mặc tiên sinh truy tung nhân quả.
Bạn đang đọc truyện trên: DocTruyen.Pro